Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam: Giải bài toán không phụ thuộc từ nước ngoài
Khi thực hiện dự án xây dựng đường sắt đô thị, nhiều khó khăn đã phát sinh, trong đó có vấn đề thiếu hụt nhân lực có kiến thức về kiểu hình vận tải này. Bài toán đào tạo nhân sự nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực đường sắt cao tốc đã được đưa ra từ khi chính thức khởi động Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Theo thông báo từ ông Vũ Hồng Phương, Giám đốc Ban Quản lý Dự án đường sắt, Bộ Giao thông Vận tải đã yêu cầu các đơn vị xây dựng đề án đào tạo nhân lực phù hợp với dự án. Nhân lực sẽ được đào tạo từ sớm, ngay sau khi dự án có được phê duyệt đầu tư, tập trung vào nghiên cứu công nghệ và quản lý dự án.
Dự kiến, Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam sẽ yêu cầu khoảng 180.000 công nhân cho công tác xây dựng, 13.880 người cho vận hành và khai thác, 700 cán bộ cho các cơ quan quản lý và khoảng 1.200 kỹ sư tư vấn.
Dự án đã được thiết lập chương trình đào tạo nhân lực bao gồm 3 hình thức: đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài, và chương trình kết hợp với 4 cấp trình độ: công nhân kỹ thuật, kỹ sư, thạc sĩ, và tiến sĩ. Đối tượng đào tạo bao gồm cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị thực hiện dự án, cơ sở vận hành, cơ sở giáo dục và cơ sở nghiên cứu.
Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Danh Huy nhấn mạnh, bộ đã nhận thức rõ ràng áp lực về nhân lực trước thực tế triển khai đường sắt đô thị. Do đó, việc đào tạo dự kiến sẽ thực hiện ngay từ bây giờ với nguồn lực từ các cơ quan quản lý cho đến đội ngũ tư vấn và vận hành. Trước đây, Thứ trưởng cũng đã đề cập đến việc xây dựng tinh thần tự chủ và tự lực trong việc thực hiện Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Về việc chọn công nghệ, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy cho biết: “Quyết định này sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là khả năng chuyển giao công nghệ từ các nước, không chỉ dựa vào giá cả. Trong giai đoạn nghiên cứu khả thi, các yếu tố kỹ thuật sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng để làm cơ sở lựa chọn”.
Đối với việc phát triển công nghiệp đường sắt tại Việt Nam, tuy công nghệ lõi vẫn chưa được làm chủ, nhưng công nghệ phụ trợ hoàn toàn có thể được kiểm soát nếu có sự chuyển giao về máy móc và thiết bị. Ngoài ra, ngành xây dựng, bao gồm cầu, đường và hầm cũng đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc làm chủ.
Chẳng hạn, cầu dây văng Mỹ Thuận 2 đã được thực hiện hoàn toàn từ thiết kế đến thi công. Các doanh nghiệp như Sơn Hải, Sông Đà 10, và Đèo Cả đã độc lập trong việc thi công hầm. Về các đoàn tàu, đã có sự nâng cấp đồng bộ các toa xe cũ để chuyển thành các toa xe hiện đại, phục vụ cho các chuyến tàu SE21/SE22 giữa Tp. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, thu hút đông đảo khách du lịch. “Chúng tôi có hai nhà máy công nghiệp đường sắt như Dĩ An và Gia Lâm, phát triển từ thời Pháp, hiện nay đã được trang bị đầy đủ máy móc và thiết bị hiện đại, bao gồm cả máy cắt CNC kim loại,” Thứ trưởng cho biết.
Đến nay, Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam đã được Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương thông qua, đồng thời giao Chính phủ thực hiện Đề án trình Quốc hội khóa XV tại Kỳ họp thứ 8 dự kiến khai mạc vào ngày 21/10 tới.
Theo báo cáo nghiên cứu khả thi về Dự án, Bộ Giao thông Vận tải đã đề xuất đầu tư cho tuyến đường sắt tốc độ cao với tốc độ tối đa 350 km/h, tổng chiều dài lên tới 1.541 km, xây dựng với dạng đường đôi, khổ 1.435 mm và được điện khí hóa, với tổng mức đầu tư khoảng 67,34 tỷ USD.
Về quy mô đầu tư, đường sắt tốc độ cao sẽ có 23 ga hành khách với khoảng cách trung bình giữa mỗi ga là 67 km, cùng 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa. Tuyến đường sẽ bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội), đi qua 20 tỉnh thành và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP HCM).
Bộ Giao thông Vận tải đã góp ý lựa chọn công nghệ đường sắt chạy trên ray, với hướng mở để có thể kết hợp và khai thác nhiều loại tàu, nhằm ngăn chặn tình trạng độc quyền.
Tại cuộc họp gần đây về việc đầu tư cho Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng các cơ quan liên quan, cần phối hợp chặt chẽ để hoàn thành các nhiệm vụ cần thiết và báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét thông qua quyết định tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, đảm bảo chất lượng và tiến độ đúng yêu cầu.