Nhà thầu đón đầu cơ hội xây dựng đường sắt tốc độ cao
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, với tổng mức đầu tư sơ bộ vượt hơn 67 tỷ USD, được coi là chương trình hạ tầng giao thông quy mô lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuyến đường có chiều dài 1.541 km, trong đó 60% là cầu, 30% là nền đất, và 10% là hầm, dự kiến sẽ tạo ra khối lượng công việc rất lớn cho các nhà thầu trong ngành xây lắp hạ tầng giao thông tại Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Quang Huy, Tổng giám đốc Tập đoàn Đèo Cả, sau năm 2025, khi các dự án cầu đường cao tốc Bắc - Nam được hoàn thành, các nhà thầu giao thông sẽ tích lũy được nguồn lực về thiết bị và kinh nghiệm nhân sự. Nếu không có những dự án tiếp theo, nguồn lực này sẽ trở nên lãng phí. Tuy nhiên, do chưa từng tham gia vào lĩnh vực đường sắt tốc độ cao, doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị kỹ lưỡng về nhân lực, thiết bị, tài chính, và khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại.
Để chuẩn bị cho dự án này, Tập đoàn Đèo Cả đã hợp tác với các trường đại học trong nước và thành lập Viện Đào tạo Nghiên cứu Đèo Cả nhằm đào tạo đội ngũ lao động cho các dự án xây dựng đường sắt và metro. Doanh nghiệp cũng đã tổ chức nhiều chuyến nghiên cứu thực tế tại các quốc gia phát triển như Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản để tiếp thu các chương trình đào tạo và chuyên gia giỏi trong lĩnh vực này.
Mục tiêu của việc hợp tác là tiếp thu công nghệ quản lý và các giải pháp kỹ thuật tiên tiến, đồng thời nghiên cứu để điều chỉnh công nghệ và thiết bị sao cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện của thị trường Việt Nam. Để thu hẹp khoảng cách công nghệ, Đèo Cả đặt trọng điểm vào chuyển đổi số, áp dụng các giải pháp hiện đại trong thi công hầm, cầu, đường và quản lý dự án, như hệ thống giao thông thông minh (ITS) và mô hình thông tin công trình (BIM).
Theo ông Huy, việc triển khai dự án thông qua hợp đồng trọn gói EPC sẽ đặt ra nhiều thách thức cho nhà thầu Việt Nam, vì phần lớn họ quen với hình thức đấu thầu thi công trước đây. Việc chuyển sang cơ chế “khoán” toàn bộ cho nhà thầu đòi hỏi trình độ quản lý cao để đáp ứng quy mô và các yêu cầu kỹ thuật của dự án đường sắt tốc độ cao.
Hợp đồng EPC yêu cầu tổng thầu phải có sự am hiểu về các giai đoạn, từ thiết kế chi tiết, lựa chọn công nghệ đến thi công, điều mà các nhà thầu trong nước vẫn đang trong quá trình học hỏi và tích lũy kinh nghiệm. Công tác quản lý hợp đồng EPC cũng đòi hỏi nhà thầu phải kiểm soát chặt chẽ từ nguồn vốn, thiết bị đến tiến độ và chất lượng thi công.
Ông Nguyễn Duy Thắng, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Trung Chính, cho biết dự án sẽ có khoảng 60% là cầu cạn, tương đương 924 km, chủ yếu là cầu giản đơn. Những cầu vượt sông lớn sẽ cần công nghệ đúc hẫng, dây văng, vì vậy nhà thầu trong nước hoàn toàn có thể đảm nhiệm. Tuy nhiên, vấn đề về độ chính xác và khống chế độ võng của dầm cầu đường sắt sẽ phức tạp hơn so với đường bộ và cần đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống thiết bị thi công.
Công ty Trung Chính đã lên kế hoạch tăng cường hợp tác với Đại học Giao thông Vận tải để đào tạo kỹ sư và tổ chức nhiều chuyến đi học hỏi quy trình đúc dầm, bảo trì, và lắp đặt tại nước ngoài.
Đại tá Nguyễn Tuấn Anh, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, cho biết doanh nghiệp đã chuẩn bị nhân lực qua việc hợp tác với các trung tâm đào tạo và cấp văn bằng cho kỹ sư đường sắt. Họ cũng tổ chức tham quan học hỏi tại các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, và Trung Quốc, đồng thời chuẩn bị nguồn lực để đầu tư vào các thiết bị hiện đại.
Hiện tại, thiết bị của các nhà thầu Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhưng để thực hiện xây dựng đường sắt tốc độ cao, cần phải áp dụng công nghệ mới và quy trình làm việc với kỷ luật cao hơn, đặc biệt là tính chính xác của máy móc. Trường Sơn cũng đã lên kế hoạch tăng vốn chủ sở hữu và tìm kiếm đối tác trong và ngoài nước để liên danh tham gia đấu thầu các dự án lớn.
Về công tác vận hành tuyến đường sắt tốc độ cao, ông Hoàng Năng Khang, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, cho biết ngành đường sắt đang tiến hành tái cơ cấu và xây dựng một mô hình quản lý mới để phù hợp với việc vận hành khai thác trong thời gian tới. Tổng công ty đang làm việc với các doanh nghiệp và đối tác quốc tế liên quan đến công nghệ, nội địa hóa và chuyển giao công nghệ.
Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) đã thành lập Ban Chỉ đạo với 5 tổ công tác để thực hiện các nhiệm vụ như xây dựng hạ tầng, bảo trì, và phát triển công nghiệp liên quan đến chuyển giao công nghệ và nội địa hóa các thành phần của dự án đường sắt tốc độ cao.
Theo dự đoán, dự án này sẽ cần khoảng 13.800 nhân lực để vận hành và khai thác. Nhân lực này sẽ làm việc với các cơ sở giáo dục cả trong nước và quốc tế. Riêng việc đào tạo lái tàu cũng không thể bắt đầu khi công trình chưa hoàn thành. Người lái tàu đường sắt tốc độ cao cần ít nhất 5 năm đào tạo, trong khi những lái tàu hiện đang làm việc cũng cần ít nhất 3 năm nếu được đưa đi đào tạo. Các chức danh nhân viên điều động tàu cũng yêu cầu từ 3 đến 5 năm học tập.
Do đó, hiện VNR đang hợp tác với các trường cao đẳng đường sắt và các đối tác nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực. Mặc dù có khả năng mời chuyên gia nước ngoài về đào tạo lý thuyết, phần thực hành vẫn cần đưa nhân lực ra nước ngoài để thực tập.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ kéo dài 1.541 km, bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP HCM), là tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, với hệ thống điện khí hóa, có tốc độ thiết kế lên đến 350 km/h và tải trọng 22,5 tấn/trục.
Theo Bộ Giao thông Vận tải, việc đầu tư vào tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ tạo ra một thị trường xây dựng có giá trị khoảng 33,5 tỷ USD. Nếu tính cả hệ thống đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị, tổng giá trị thị trường xây dựng có thể đạt 75,6 tỷ USD, trong đó sản xuất phương tiện và thiết bị 34,1 tỷ USD (đầu máy, toa xe 9,8 tỷ USD; hệ thống thông tin tín hiệu và các thiết bị khác 24,3 tỷ USD).
Bên cạnh đó, dự án cần một đội ngũ quản lý dự án từ 700 đến 1.000 người, và các đơn vị tư vấn sẽ phải đào tạo từ 1.000 đến 1.300 người. Đơn vị vận hành khai thác cần khoảng 13.800 người. Lĩnh vực xây dựng cũng như tổ hợp công nghiệp chế tạo, sản xuất vật tư và linh kiện theo lộ trình thực hiện dự án sẽ cần khoảng 220.000 nhân lực.