Đường sắt cao tốc Bắc - Nam sẽ kết nối với đường sắt liên vận quốc tế Á, Âu
Thông tin từ Báo Chính phủ cho biết, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) gần đây đã có công văn gửi Tổng thư ký Quốc hội nhằm giải trình và làm rõ một số vấn đề mà các Đại biểu Quốc hội quan tâm liên quan đến hồ sơ chủ trương đầu tư cho dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam.
Theo thông tin từ lãnh đạo Bộ GTVT, tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam đã được thiết kế để kết nối với hệ thống đường sắt liên vận quốc tế ở khu vực Á và Âu.
Cụ thể tại khu vực phía Bắc, tuyến đường sắt tốc độ cao này sẽ bắt đầu từ tổ hợp Ngọc Hồi và ga Thường Tín, nối với Trung Quốc qua tuyến vành đai phía Đông, kết nối từ ga Ngọc Hồi đến ga Kim Sơn.
Tại ga Kim Sơn, tuyến đường sẽ giao nhau với đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và đi đến Hà Khẩu - Trung Quốc, đồng thời kết nối với ga Yên Thường đi Nam Ninh - Trung Quốc qua tuyến Hà Nội - Lạng Sơn.
Đối với miền Trung, tuyến cao tốc này sẽ kết nối với Lào tại ga Vũng Áng thông qua tuyến đường Mụ Giạ - Vũng Áng - Viêng Chăn.
Trong khu vực miền Nam, tuyến đường sắt cao tốc cũng sẽ kết nối với ga Trảng Bom qua một nhánh, và từ đây, tuyến đường sẽ được quy hoạch để kết nối đến ga An Bình, tiến vào Campuchia qua các tuyến TP HCM - Lộc Ninh và TP Hồ Chí Minh - Mộc Bài.
Trong quá trình vận hành, Bộ GTVT sẽ hướng dẫn Tổng công ty Đường sắt Việt Nam phát triển các tuyến liên vận quốc tế, như đã triển khai trước đó, nhằm tối ưu hóa hiệu suất của tuyến đường sắt này.
Báo cáo của Bộ GTVT cũng đã làm sáng tỏ những thắc mắc của các đại biểu Quốc hội về khả năng tiếp nhận công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Bộ cũng đã trình bày khả năng tự chủ trong việc nội địa hóa công nghệ đường sắt tốc độ cao khi không nhận được hỗ trợ chuyển giao từ nước ngoài.
Hiện tại, công nghiệp đường sắt Việt Nam chủ yếu đáp ứng được nhu cầu bảo trì và sửa chữa các tuyến đường sắt hiện có, cũng như sản xuất mới các toa xe hàng và khách với tốc độ tối đa dưới 120 km/h.
Theo kinh nghiệm quốc tế, sự phát triển của công nghiệp đường sắt thường yêu cầu các quốc gia phải nắm rõ công nghệ cốt lõi, có một nền tảng công nghiệp phụ trợ vững mạnh và hậu thuẫn vốn đầu tư lớn cho công nghệ và cơ sở hạ tầng.
Do đó, các quốc gia cần thận trọng trong việc xác định phạm vi phát triển của ngành đường sắt, vì chuyển giao công nghệ chỉ thực sự hiệu quả khi quy mô thị trường lớn.
Dự án này đã nghiên cứu và đưa ra một số chính sách về chuyển giao công nghệ; đồng thời Bộ GTVT cũng đã hợp tác với một số doanh nghiệp trong nước như Tổng Cục công nghiệp - Bộ Quốc phòng, Tập đoàn Hòa Phát, và Tập đoàn Thành Công để phát triển chiến lược cho ngành công nghiệp đường sắt, với mục tiêu đến năm 2045.
Chính phủ sẽ tiếp tục rà soát để đánh giá kỹ lưỡng khả năng tự chủ và nội địa hóa công nghệ đường sắt cấp cao Bắc - Nam theo những ý kiến từ Đại biểu Quốc hội.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, trong đó cập nhật nhu cầu đất cho dự án đường sắt tốc độ cao, dự kiến khoảng 10.827 ha. Các địa phương cũng đã điều chỉnh hướng tuyến và nhu cầu quỹ đất cho dự án.
Tuyến đường sắt cao tốc sẽ khởi đầu tại TP Hà Nội (ga Ngọc Hồi) và kết thúc tại TP Hồ Chí Minh (ga Thủ Thiêm), đi qua 20 tỉnh, thành phố với tổng chiều dài khoảng 1.541 km.
Dự án sẽ xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa và có tốc độ thiết kế lên tới 350 km/h, với tải trọng 22,5 tấn/trục và khả năng vận chuyển cả hành khách lẫn hàng hóa khi cần.
Tổng vốn đầu tư sơ bộ cho dự án ước tính khoảng 1.713.548 tỷ đồng (hơn 67 tỷ USD). Nguồn vốn nhà nước dự kiến sẽ được bố trí trong các kế hoạch đầu tư công trung hạn nhằm hoàn thành dự án vào năm 2035, với mức bình quân hàng năm khoảng 5,6 tỷ USD trong vòng 12 năm, tương đương khoảng 1,3% GDP năm 2023 và 1,0% GDP năm 2027 (thời điểm khởi công dự án). Việc triển khai sẽ huy động đa dạng các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện dự án.