Cơ hội nào cho ngành công nghiệp khi làm đường sắt tốc độ cao?

16/11/2024 - 08:37
|

Theo thông tin từ Bộ Giao thông Vận tải, việc phát triển tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam sẽ tạo ra một thị trường xây dựng với tổng giá trị lên tới khoảng 33,5 tỷ USD. Nếu kể đến toàn bộ hệ thống đường sắt quốc gia cùng với đường sắt đô thị, con số này có thể tăng lên 75,6 tỷ USD. Trong đó, sản xuất phương tiện và thiết bị sẽ đóng góp 34,1 tỷ USD, bao gồm 9,8 tỷ USD cho đầu máy và toa xe, cùng với 24,3 tỷ USD cho các hệ thống thông tin tín hiệu và thiết bị khác.

Thêm vào đó, dự án đường sắt tốc độ cao sẽ cần một đội ngũ quản lý khoảng 700-1.000 người, kèm theo nhu cầu đào tạo 1.000-1.300 chuyên gia cho các đơn vị tư vấn. Ngoài ra, đơn vị vận hành khai thác sẽ cần khoảng 13.800 nhân sự. Tổng số nhân lực cần cho lĩnh vực xây dựng và tổ hợp công nghiệp chế tạo, cũng như sản xuất vật tư và linh kiện trong quá trình thực hiện dự án ước tính khoảng 220.000 người.

Thứ trưởng Giao thông Vận tải, Nguyễn Danh Huy, cho biết Chính phủ đã xác định sẽ sử dụng nguồn vốn trong nước để đầu tư cho đường sắt tốc độ cao và tùy theo khả năng tài chính, có thể xem xét phát hành trái phiếu trong nước hoặc vay vốn nước ngoài. Nếu vay vốn nước ngoài, Chính phủ sẽ yêu cầu các điều kiện cần thiết, bao gồm việc chuyển giao công nghệ cho Việt Nam.

Với cam kết này, ngành giao thông quốc gia đã đặt ra mục tiêu làm chủ toàn bộ công tác xây dựng hạ tầng như cầu, đường, và hầm, đồng thời tự quản lý hoàn toàn các hoạt động bảo trì, sửa chữa và vận hành hệ thống đường sắt tốc độ cao.

Cơ hội nào cho ngành công nghiệp khi làm đường sắt tốc độ cao? - ảnh 1

Ông Hoàng Năng Khang, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR), nhấn mạnh rằng dự án đường sắt tốc độ cao sẽ bao gồm việc xây dựng các hạ tầng như nền đường, cầu và hầm, cũng như các yếu tố cần thiết trên nền đường như tà vẹt và ray. Phương tiện đường sắt sẽ gồm đầu máy và toa xe, trong khi hệ thống tín hiệu, điện và thiết bị điều khiển cũng rất quan trọng, với tổng số thiết bị cần thiết cho hạ tầng và phương tiện dự kiến sẽ vượt 10.000 chi tiết.

Theo ông Khang, các đơn vị xây dựng giao thông trong nước hiện đã tự chủ được việc xây dựng hạ tầng như đường, cầu và hầm, cũng như tà vẹt bêtông. Tuy nhiên, một số thiết bị như ray, ghi vẫn phải được nhập khẩu. Về phương tiện vận tải, VNR đã chế tạo được 158 toa xe khách với tỷ lệ nội địa hóa khoảng 80% và 480 toa xe hàng với tỷ lệ nội địa hóa 70%. Đầu máy tàu cũng đã được sản xuất với tỷ lệ nội địa hóa hơn 10%, nhưng hầu hết các bộ phận quan trọng vẫn cần phải nhập khẩu.

Trong lĩnh vực thiết bị thông tin và tín hiệu, ông Khang chỉ ra rằng đây là phần phức tạp nhất, vì trên thế giới chỉ có một vài nhà sản xuất có công nghệ lõi, chẳng hạn như Hitachi (Nhật Bản), Alstom (Pháp) và Siemens (Đức). Dù nhiều quốc gia đã đạt được tỷ lệ nội địa hóa từ 70-80% trong sản xuất tàu cao tốc, họ vẫn phải phụ thuộc vào các nhà cung cấp công nghệ hàng đầu.

Khi thực hiện dự án, ngành đường sắt sẽ tiếp nhận chuyển giao công nghệ để sản xuất toa xe, chế tạo trục bánh xe, hệ thống hãm và các thiết bị điều khiển khác, với mục tiêu là tăng tỷ lệ nội địa hóa phương tiện lên khoảng 30-40% và làm chủ công tác bảo trì, bảo dưỡng.

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng sẽ có cơ hội tham gia sản xuất các chi tiết cho tàu, hoặc hợp tác với các đối tác nước ngoài để chế tạo các sản phẩm như ray, ghi, và thiết bị thông tin tín hiệu; các chi tiết cơ khí và linh kiện điện tử sẽ do các tập đoàn cơ khí, điện tử, và viễn thông đảm trách.

Ông Khang nhấn mạnh rằng dự án đường sắt tốc độ cao sẽ tạo ra một thị trường lớn, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu và sản xuất các chi tiết và phụ tùng cho dự án này, đồng thời hướng tới xuất khẩu ra nước ngoài.

Theo Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, nếu nhận được sự chuyển giao công nghệ đúng đắn, với quy mô thị trường 75,6 tỷ USD, Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển ngành công nghiệp đường sắt. Dự kiến, Việt Nam sẽ làm chủ trong lĩnh vực xây dựng, từng bước nắm bắt và nội địa hóa sản xuất toa xe, hệ thống cấp điện, cũng như hệ thống thông tin tín hiệu; đồng thời, tự chủ trong công tác vận hành, bảo trì, và sản xuất các linh kiện thay thế cho hệ thống đường sắt tốc độ cao.

Để phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp đường sắt, ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Đường sắt Việt Nam, nhấn mạnh rằng cần đặt chuyển giao công nghệ lên hàng đầu. Ông đề xuất Việt Nam cần những tiêu chí và nguyên tắc rõ ràng trong việc đấu thầu chọn nhà cung cấp, trong đó yêu cầu doanh nghiệp chuyển giao công nghệ phải có trách nhiệm xây dựng nhà máy và hợp tác với các công ty trong nước.

Ngoài ra, để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận các dự án, Chính phủ nên nghiên cứu các giải pháp cơ chế như quy định về đấu thầu để nâng cao tỷ lệ sử dụng vật tư và thiết bị sản xuất trong nước, cũng như khuyến khích các gói thầu về máy móc thiết bị để tạo ra thị trường cho doanh nghiệp cơ khí trong nước.

Ông Cảnh đã dẫn chứng kinh nghiệm từ Hàn Quốc, nơi đã nhận chuyển giao công nghệ tàu tốc độ cao từ Pháp và đã chỉ định một số tập đoàn công nghiệp lớn như Daewoo và Hyundai để thiết lập tổ hợp nhà thầu, yêu cầu nhà cung cấp Pháp hợp tác với các doanh nghiệp này để chuyển giao công nghệ.

Tại Việt Nam, Chính phủ có thể chỉ định các doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực đường sắt, hạ tầng, cơ khí chế tạo, và công nghệ thông tin để tham gia vào tổ hợp sản xuất, từ đó phát triển các linh kiện và thiết bị phục vụ cho đường sắt.

Ông Hoàng Năng Khang đã kiến nghị rằng Luật Đường sắt và các nghị định liên quan cần được sửa đổi khẩn trương, điều chỉnh các nội dung như mức ưu đãi và hỗ trợ cho phát triển công nghiệp đường sắt, đảm bảo phù hợp với các quy định về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng, cũng như hỗ trợ cho các cơ sở công nghiệp đường sắt có nhu cầu đầu tư vào công nghệ mới, đặc biệt là cho đường sắt tốc độ cao.

Ngoài ra, nhà nước cũng cần đưa ra các chính sách khuyến khích và ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế lớn tham gia vào đầu tư, nghiên cứu, và sản xuất trong các lĩnh vực cơ khí, phần mềm tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, cùng với thông tin tín hiệu đường sắt.