Năng lực sản xuất vật liệu xây dựng tăng hàng trăm lần sau 40 năm phát triển

22/11/2024 - 08:47
|

Theo Viện Vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng, trước năm 2010, các sản phẩm vật liệu xây dựng chủ yếu của Việt Nam như clanhke, gạch gốm ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng chỉ có thể được nhập khẩu để phục vụ nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, hiện tại, các doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực này đã có khả năng đáp ứng phần lớn nhu cầu xây dựng và phát triển hạ tầng trên toàn quốc, thậm chí một số sản phẩm đã bắt đầu xuất khẩu ra thị trường quốc tế.

MỨC ĐÓNG GÓP NGÀY CÀNG TĂNG CAO

Dữ liệu thống kê cho thấy, năng lực sản xuất của nhiều sản phẩm vật liệu xây dựng quan trọng tại Việt Nam đã tăng gấp nhiều lần trong 40 năm qua. Đặc biệt, với mặt hàng sứ vệ sinh, tổng công suất đã tăng lên 190 lần, từ 0,14 triệu sản phẩm vào năm 1994 đạt tới 26,6 triệu sản phẩm vào năm 2023. Hơn nữa, các sản phẩm này có kiểu dáng đa dạng, cạnh tranh với hàng nhập khẩu và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, và Mỹ, với tổng sản lượng xuất khẩu năm 2023 dự kiến đạt khoảng 2,1 triệu sản phẩm.

Tương tự, ngành kính xây dựng cũng ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ, với tổng công suất sản xuất tăng 57 lần từ 5,8 triệu m² mỗi năm vào năm 1994 lên đến 331 triệu m² vào năm 2023, đưa Việt Nam vào danh sách những quốc gia có sản lượng kính cao trong khu vực Đông Nam Á.

Nhờ những thành tựu này, Viện Vật liệu xây dựng cho hay giá trị sản xuất vật liệu xây dựng đang trên đà gia tăng, với tỷ lệ đóng góp vào GDP của lĩnh vực này ngày càng cao hơn. Đến hết năm 2023, tỷ lệ đóng góp của sản xuất vật liệu xây dựng cho GDP Việt Nam ước đạt khoảng 6-7%.

Ngoài ra, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng hiện đã bắt đầu chuyển mình, chú trọng vào việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, đảm bảo an ninh kinh tế và hội nhập quốc tế; đồng thời hình thành các điều kiện cần có cho nền kinh tế xanh. Việc phát triển vật liệu xây dựng theo hướng bền vững và bảo vệ môi trường là ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong ngành công nghiệp vật liệu, nhiều sản phẩm mới đã được đưa vào sử dụng.

Một số loại vật liệu mới như vật liệu xây dựng xanh - loại thân thiện với môi trường đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, bao gồm bê tông tự phục hồi, bê tông xanh, bê tông tính năng siêu cao, đá ốp lát nhân tạo, gạch tự làm mát, gạch không nung, tấm thông minh, kính tiết kiệm năng lượng, và cát nhân tạo từ đá hoặc sỏi cuội. Những vật liệu này có độ bền cao và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Bên cạnh đó, công nghệ nano cũng đang được ứng dụng trong ngành sản xuất vật liệu xây dựng. Công nghệ này cho phép thao tác và chế tạo vật liệu ở quy mô phân tử, từ đó cải thiện và tạo ra các tính năng đặc biệt cho vật liệu, giúp giảm kích thước của thiết bị đến mức tối ưu. Đây được xem là một cuộc cách mạng công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực xây dựng hiện nay.

Năng lực sản xuất vật liệu xây dựng tăng mạnh sau 40 năm

NÂNG CAO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN VẬT LIỆU

Tuy nhiên, ông Nguyễn Quang Hiệp, Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng đã chỉ ra rằng ngành hiện vẫn tồn tại một số hạn chế như: nhiều lĩnh vực sản xuất chỉ được đầu tư ở quy mô nhỏ và trung bình, trình độ chế tạo thiết bị cơ khí vẫn còn thấp. Năng suất và chất lượng lao động chưa đạt yêu cầu, với tỷ lệ công nhân được đào tạo chỉ khoảng 15-17%. Hơn nữa, ngành cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu đầu vào, bao gồm tài nguyên khoáng sản, công nghệ từ nước ngoài, và nhiên liệu.

Ông Nguyễn Quang Hiệp đề nghị trong giai đoạn tới, cần đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển những loại vật liệu xây dựng mới với tính năng cao và thân thiện với môi trường; phát triển công nghệ sản xuất nhằm tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.

Mặt khác, việc nghiên cứu ban hành các quy định pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật cũng rất quan trọng để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực vật liệu xây dựng; đồng thời tăng cường việc sử dụng tro từ rác thải sinh hoạt, phế thải ngành công nghiệp và nông nghiệp, để thay thế cho nguyên liệu tự nhiên trong sản xuất vật liệu xây dựng và sẽ hỗ trợ tái tạo không gian xây dựng. Sẽ cần thực hiện các dự án khảo sát trữ lượng khoáng sản để làm cơ sở cho các khoản đầu tư sản xuất trong tương lai.

Về phía doanh nghiệp, ông Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng, nhấn mạnh rằng cần chủ động đổi mới công nghệ, áp dụng những giải pháp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn. Tăng cường hợp tác đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ và quản trị doanh nghiệp sẽ giúp tiết kiệm nguyên, nhiên liệu, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tập trung vào việc hiện đại hóa công nghệ sản xuất và cải thiện phương thức quản lý, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Đồng thời, đa dạng hóa các sản phẩm vật liệu xây dựng phù hợp với các loại hình công trình và điều kiện khí hậu khác nhau, tăng cường sản xuất các sản phẩm thay thế cho hàng nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và thúc đẩy xuất khẩu trong ngành vật liệu xây dựng.