Huy động tối đa nguồn lực để vùng Trung du và miền núi phía Bắc trở thành vùng phát triển nhanh và bền vững
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tập trung vào việc phát triển các khu vực động lực, các cực tăng trưởng và các hành lang kinh tế quan trọng, cùng với những ngành kinh tế có tiềm năng nổi bật.
Kế hoạch đã xác định các nhóm nhiệm vụ chính nhằm thực hiện Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2021 - 2030, với tầm nhìn đến năm 2050.
Trong số các nhiệm vụ quan trọng, việc phát triển kết cấu hạ tầng là ưu tiên hàng đầu. Cụ thể, cần đẩy mạnh xây dựng hệ thống giao thông kết nối với Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Lào. Trọng tâm là đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông nhằm phát triển các hành lang kinh tế gắn liền với Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng như các tuyến Hà Nội - Bắc Giang - Lạng Sơn - Cao Bằng, Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên, và nhiều tuyến đường khác. Cần đẩy nhanh tiến độ các dự án đường sắt cao tốc như Lạng Sơn - Hà Nội, Lào Cai - Hải Phòng - Quảng Ninh. Đồng thời, nâng cấp hạ tầng logistics, hạ tầng các khu kinh tế cửa khẩu, du lịch, cũng như hệ thống thông tin, truyền thông và kinh tế số.
Đồng thời, cần tập trung vào phát triển các khu vực động lực, các cực tăng trưởng và các hành lang kinh tế cốt lõi. Phát triển vành đai công nghiệp, đô thị và dịch vụ, đồng thời hình thành các cụm liên kết ngành và chuỗi sản phẩm chủ yếu tại Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ - Hòa Bình. Các chuỗi giá trị sản xuất sẽ phát triển tại Thái Nguyên và Bắc Giang, với trung tâm chế biến nông sản tại Sơn La, khu sản xuất và chế biến gỗ tại Tuyên Quang, và điểm giao thương kinh tế giữa Việt Nam và vùng Tây Nam Trung Quốc tại Lào Cai. Các cực tăng trưởng cũng sẽ được phát triển tại Thái Nguyên, Bắc Giang, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn và Phú Thọ, với việc chú trọng vào chuỗi sản phẩm nông nghiệp, du lịch đặc trưng và kinh tế cửa khẩu.
Mục tiêu cũng hướng đến việc tăng cường phát triển 05 khu kinh tế cửa khẩu tại các địa phương, bao gồm: Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang), Cao Bằng (Cao Bằng), Đồng Đăng - Lạng Sơn (Lạng Sơn), Ma Lù Thàng (Lai Châu) và Lào Cai. Các khu vực như Cao Bằng, Đồng Đăng - Lạng Sơn và Lào Cai sẽ được ưu tiên đầu tư, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Cũng cần mở rộng và áp dụng chính sách khu kinh tế cửa khẩu tại 3 cửa khẩu - quốc tế Lóng Sập, Chiềng Khương (Sơn La) và Tây Trang (Điện Biên). Ngoài ra, cần nghiên cứu khả năng phát triển khu kinh tế cửa khẩu tại U Ma Tu Khoòng (Lai Châu).
Cùng với những nỗ lực trên, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là giáo dục nghề nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo đáp ứng nhu cầu từng tiểu vùng và khu vực. Cần chú trọng vào việc thu hút, sử dụng nguồn nhân lực có trình độ tại địa phương. Thực hiện Chương trình phát triển thị trường lao động đến năm 2030, gắn với việc đẩy mạnh thông tin về thị trường lao động, bên cạnh xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách quản lý lao động và bảo hiểm thất nghiệp.
Thái Nguyên được xác định là khu vực nghiên cứu - đào tạo nhân lực chất lượng cao cho toàn vùng. Cần chuẩn bị điều kiện phát triển các trường đại học như Đại học Tây Bắc (Sơn La), Đại học Nông Lâm Bắc Giang, và Đại học Hùng Vương (Phú Thọ) thành những cơ sở giáo dục trọng điểm, ưu tiên cho đào tạo nghề chất lượng cao, bảo tồn văn hóa và lịch sử cộng đồng dân tộc. Đồng thời, cần nghiên cứu tiềm năng mở rộng các trường đại học cấp tiểu vùng tại Điện Biên và Lai Châu.
Cần thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới và đặc thù trong phát triển vùng. Tăng cường liên kết giữa các khu vực và hợp tác quốc tế, đồng thời thực hiện các chính sách đặc thù cho vùng trọng điểm về bảo vệ rừng, an ninh biên giới, nước và năng lượng.
Cần chú trọng bảo vệ nguồn nước đầu nguồn, và thực hiện thí điểm mô hình chia sẻ nguồn nước giữa các ngành trong vùng và vùng đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, cũng cần tăng cường năng lực thực thi pháp luật bảo vệ môi trường cho các tỉnh tại Trung du và miền núi phía Bắc cho đến năm 2030. Việc đầu tư xây dựng các công trình cấp nước liên vùng và liên tỉnh cũng cần được đẩy mạnh.
Đồng thời, cần triển khai đồng bộ các giải pháp kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội và củng cố thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ. Quản lý và bảo vệ các công trình quốc phòng và khu quân sự là rất quan trọng. Tuyên truyền và giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân về sự cần thiết kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng và an ninh. Tăng cường giáo dục quốc phòng và an ninh cũng là một phần quan trọng trong việc xây dựng vững chắc thế trận lòng dân.